Kiến thức
Trống đất – nhạc cụ dân tộc độc đáo
Trong lịch sử văn hóa và âm nhạc dân tộc, bên cạnh trống đồng ở phía Bắc và đàn đá Tây Nguyên có lẽ trống đất là một trong những nhạc cụ cổ xưa và độc đáo bậc nhất. Nếu như, hiện nay trống đồng và đàn đán vẫn còn được diễn tấu khác nhiều và đã trở nên nổi tiếng với bạn bè quốc tế thì trống đất hiện chỉ được dùng hiếm hoi ở một vài dân tộc như: Mường, Sán Chay, Cor ở Việt Nam.
Nguồn gốc
Theo các nhà nghiên cứu văn hóa, trống đất được coi là “thủy tổ” của các loại trống vì xuất hiện từ rất sớm, có thể trước cả trống đồng. Đó là sản phẩm được sáng tạo của những người lao động và được bồi đắp, bổ sung, trao truyền qua nhiều thế hệ.
Trống đất theo tiếng Mường là “Toòng Tửng”. Theo truyền thuyết của người Mường vùng Phú Thọ, trống đất được sáng tạo trong quá trình chống ngoại xâm của ông cha từ thời Hùng Vương. Trong quá trình đào hố chôn cột trại, những âm thanh vang lên từ lòng đất chính là gợi ý cho sự sáng tạo nên nhạc cụ độc đáo này. Từ nguồn gốc đó mà trống đất thuở ban đầu là nhạc cụ sử dụng để ăn mừng khao quân thắng trận.
Tổ tiên người Cor ở Quảng Ngãi đã sáng tạo nên trống đất của mình từ âm thanh thình thình của tiếng đào đất dội lại trong quá trình làm như những người Cor lớn tuổi am hiểu về phong tục.
Dù sáng tạo trong những hoàn cảnh khác nhau nhưng trống đất là sản phẩm được chủ thể văn hóa sáng tạo trong quá trình lao động sản xuất và chống giặc ngoại xâm. Với khả năng thẩm âm bẩm sinh, từ những âm thanh cộng hưởng của đất trong các hoạt động này, chủ thể đã làm nảy sinh ý tưởng làm trống đất.
Từ buổi sơ khai nhất của lịch sử văn hóa và âm nhạc Việt Nam, dù đời sống còn nhiều khó khăn vất vả khi sự hiểu biết còn hạn chế nhưng chủ thể văn hóa đã tìm tòi và sáng tạo nên một nhạc cụ độc đáo, thỏa mãn nhu cầu về thẩm mỹ âm nhạc của mình và gửi gắm vào đó những khát vọng về mùa màng tốt tươi, đời sống ấm no. Đấy còn là minh chứng của một đời sống tâm hồn phong phú, lạc quan, yêu đời của người Việt.
Nét độc đáo của trống đất
Không giống như trống đồng hay đàn đá, trống đất không tốn quá nhiều thời gian và công sức để làm. Từ việc khoét 1 hay 5 hố đất cùng với một số công đoạn khác, không đến 30 phút nếu đã có sẵn: mo cau, tre nứa, dây rừng, thừng, dây lạt,… ta đã có ngay một chiếc trống đất. Cũng giống như các loại nhạc cụ khác, điều được quan tâm nhiều nhất ở trống đất chính là âm thanh nó phát ra; âm thanh có vang hay không phụ thuộc rất nhiều vào người nghệ nhân. Đó cũng chính là sự đặc biệt của loại trống này, nó có tính cá biệt hóa rất cao: mỗi cái trống đất sẽ mang dấu ấn riêng của mỗi cá nhân chế tác nên.
Trống đất không chỉ độc đáo ở hình dáng hay chất liệu mà nó còn có nhiều đặc tính, công năng tùy vào từng vùng miền, mỗi dân tộc. Đối với người Mường và người Cor, họ đều phải thực hiện nghi thức cúng thần linh trước khi làm trống đất.
Tuy nhiên, với người Cor trống đất được dùng chủ yếu để cầu mưa, mong muốn vụ mùa bội thu, tươi tốt. Trong khi đó, người Mường lại dùng trong đất trong các lễ hội: Đâm đuống, Sắc bùa, Trống đu, đình Lưa, Xôi mới 10/10…
Trong đời sống văn hóa nói chung và nền âm nhạc của các dân tộc Việt Nam nói riêng trống đất dường như đã không còn được xuất hiện nhiều. Sự xuất hiện trở lại gần đây của trống đất trong các hoạt động sinh hoạt văn hóa và tín ngưỡng ở một số địa phương thực sự là một tín hiệu đáng mừng khi dân tộc ta vẫn còn gìn giữ được những nét văn hóa của cha ông. Nhưng để trống đất thực sự sống lại thì cần có sự nỗ lực chung tay của không chỉ các cơ quan chuyên trách với nghệ nhân hay của các nhà nghiên cứu văn hoa mà mỗi người dân cũng phải luôn cố gắng tìm hiểu về những nét độc đáo trong văn hóa dân tộc.