Kiến thức
Nên giữ hay bỏ tục lệ đốt vàng mã
Từ đầu năm ngoái, Trung ương Giáo hội Phật giáo Việt Nam đã đưa ra công văn số 31, đề nghị các Phật tử loại bỏ tục đốt vàng mã tại các cơ sở thờ tự Phật giáo để hướng đến loại bỏ mê tín dị đoan. Điều này đã dấy lên nhiều làn sóng trái chiều trong dư luận nhưng đến nay nó vẫn chưa được thực hiện triệt để. Vậy có nên hay không việc bỏ đi tục lệ này?
Đốt vàng mã: tục lệ hay điều lệ?
Trong bài viết được đăng trên tờ Đuốc Tuệ vào năm 1952, Hòa thượng Tố Liên đã viết rất rõ ràng: Tục vàng mã bắt đầu từ Trung Quốc, gắn với tục hiến sinh và được truyền vào Việt Nam từ cách đây rất lâu.
Theo những dẫn chứng của Hòa thượng Tố Liên, bài viết được đánh giá là hoàn toàn phù hợp với sử sách cũng như trong các khảo thí của cả Việt Nam lẫn Trung Quốc.
Để mở rộng hơn về vấn đề này, thành Viên Ngộ tại bang Virginia – Mỹ đã nói thêm: “Đốt giấy tiền vàng mã là phong tục của người dân, mà người dân mình bị ảnh hưởng bởi văn hóa Trung Quốc lâu đời, thành ra cứ vậy mà làm. Còn trong Phật giáo thì không dạy đốt cái này cái khác xuống dưới để người chết nhận”.
Bên cạnh đó, thầy Viên Ngộ còn chỉ ra rằng hành động đốt vàng mã là một sự mâu thuẫn: “Khi người thân mình mất, mình muốn cầu vãng sanh về thế giới nào đó, thiên đàng hay cực lạc, nhưng mình lại đốt xuống âm phủ để người đó nhận. Vậy thì nó mâu thuẫn lẫn nhau”.
Theo một ý kiến khác của một bạn trẻ ở Sài Gòn về tục đốt vàng mã, bạn cho hay: “Nhiều người Việt Nam nghĩ rằng đốt nhiều xuống dưới âm phủ thì người nhà họ sẽ nhận được nhiều. Nhưng thật ra họ nên nghĩ khi người ta mất rồi thì nên nghĩ đến chuyện để họ siêu thoát hơn là việc có cuộc sống đầy đủ ở dưới”.
Theo Tiến sĩ Hán – Nôm Nguyễn Xuân Diện: hiện nay mỗi năm tại Việt Nam người dân “hóa vàng” gần cả trăm tấn giấy, bao gồm các loại tiền đôla âm phủ, xe hơi, nhà lầu, quần áo, giày dép… nhằm thể hiện quan niệm “trần sao âm vậy”. Bên cạnh đó, vàng mã còn được làm theo mùa, như trong dịp đưa ông Táo về trời, người ta còn đốt cả lồng đèn cá chép, quần áo, giày mũ Táo quân… Nó gần như đã trở thành một phần của văn hóa Việt.
Ngày nay không chỉ riêng trong những dịp giỗ chạp, Tết nhất, cô hồn mà người ta còn đốt trong ngày lễ Vu Lan, mùng 1 và rằm mỗi tháng…
Giữ hay bỏ?
Với công văn số 31 của Giáo hội Phật giáo Việt Nam, đó chỉ là kiến nghị nên bỏ đốt vàng mã tại các cơ sở thờ tự Phật giáo như chùa, tịnh xá, thiền viện, tu viện, tịnh nhất, phật đường.
Với công văn này người dân thành phố Hồ Chí Minh cho biết: “Bà vẫn đốt từ mùng 3 tới giờ vì đốt ở nhà đâu có bao nhiêu. Cái này là phong tục, chưa cấm hẳn, khi mà các chùa cấm triệt để, không cho đốt thì các ông, bà không dám đốt”.
Với một số người dân đang sinh sống tại Hoa Kỳ, lại cho rằng nên bỏ hẳn tục lệ này: “Khi mình tưởng niệm thì mình tưởng niệm trong tâm mình bằng cách làm việc thiện. Tiền mua vàng mã nên tích góp lại cho người vô gia cư một bữa ăn vẫn tốt hơn việc mua vàng mã để đốt. Khi đốt vàng mã, khí lên ảnh hưởng đến bản thân đầu tiên rồi tới những người xung quanh”.
Khó khăn
Thực tế cho thấy, việc đốt vàng mã nhiều hay ít tùy theo quy định của các cơ sở Phật giáo tại địa phương.
Theo những một vài bạn đang làm thiện nguyện cho chùa chuyên chăm lo trẻ em mồ côi: “Bây giờ người ta cúng thì cũng không xài vàng mã nữa, ít lắm. Thậm chí đi chùa người ta cũng chỉ nói chỉ được cắm tối đa 3 cây nhang thôi. Đương nhiên vàng mã người ta vẫn còn bán, nhưng không rầm rộ như trước nữa”.
Tiến sĩ Hán – Nôm Nguyễn Xuân Diện đã cho biết những khó khăn sẽ vấp phải nếu thực hiện lệnh cấm đốt vàng mã trong chùa: “Trong mỗi ngôi chùa ở phía sau đều có một ngôi nhà gọi là Điện thờ Mẫu Tam tòa Tứ phủ. Thực hiện nghi lễ Tam tòa Tứ phủ thì phải có nghi lễ lên đồng hầu bóng. Trong nghi lễ hầu bóng thì luôn luôn phải có vàng mã. Không biết Giáo hội Phật giáo Việt Nam có nói rõ về vấn đề đó hay không”.
Tại Hà Nội, có những ngôi làng mà hầu hết người dân trong làng đều làm nghề hàng mã như Làng Cót hay còn gọi là làng ngân hàng âm phủ, Làng Đông Hồ, Làng Duyên Trường,…
Sản phẩm làm ra không chỉ để cung cấp cho nhu cầu trong nước mà còn cho xuất khẩu sang cả Lào hay Đài Loan.
Trước tình hình này, Tiến sĩ Nguyễn Xuân Diệu đặt ra câu hỏi: “Nếu việc cấm đốt vàng mã này dừng lại hoàn toàn thì nhà nước và bộ văn hóa cần làm thế nào để những làng xã và hộ dân sống bằng nghề vàng mã có cách mưu sinh như thế nào? Đó cũng là một vấn đề tôi thấy băn khoăn và dự cảm rằng sẽ khó thực hiện được”.
Đến nay, đây vẫn là vấn đề những được nhiều sự quan tâm đặc biệt. Tuy đã được đưa ra nhiều lần để bàn luận nhưng cuối cùng vẫn không đi đến được sự giải quyết hợp lí nhất.